Diễn biến trong những ngày qua đã cho thấy, nỗ lực tăng cường mua hàng hóa Mỹ hay đề xuất giảm thuế về 0% là không đủ để thỏa mãn Mỹ. Cố vấn Thương mại Nhà Trắng Peter Navarro đã cho biết, việc cắt giảm thuế quan là không đủ. Điều Mỹ quan tâm nhất ở thời điểm hiện tại là gian lận thương mại, là khả năng Trung Quốc sử dụng Việt Nam như con đường lách thuế quan của Mỹ.
Điều kiện tiên quyết
Từ đó, chúng ta có thể dự đoán, việc kiểm soát/hạn chế hàng hóa, nguyên vật liệu có nguồn gốc, xuất xứ từ Trung Quốc sẽ là một trong những điều kiện được đưa ra trong cuộc đàm phán Việt Mỹ, nếu không nói đó là điều kiện tiên quyết. Câu hỏi khó ở đây, là Mỹ sẽ đòi hỏi Việt Nam kiểm soát nguồn gốc hàng hóa Trung Quốc đến đâu, và Việt Nam có thể đáp ứng được đến đâu.
Thực tế rõ ràng là, mặc dù Việt Nam đã có nhiều nhà máy sản xuất hơn trong những năm gần đây, những cơ sở sản xuất này vẫn sử dụng một lượng lớn nguyên vật liệu, tư liệu sản xuất và bán thành phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc. Điều này đặc biệt đúng trong những ngành có tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ lớn, như dệt may, da dày hay linh kiện điện tử. Sẽ là vô nghĩa nếu Việt Nam đạt được thỏa thuận giảm thuế quan với Mỹ nhưng lại không thể tiếp cận nguồn cung ứng từ Trung Quốc.
Khi Mỹ đánh thuế lên hàng hóa Trung Quốc, chi phí nhập khẩu hàng hóa của Mỹ sẽ tăng lên. Để giải quyết vấn đề này, các doanh nghiệp tìm kiếm nguồn cung từ một quốc gia khác. Tuy nhiên, không một quốc gia nào có đủ năng lực sản xuất như Trung Quốc, nên thực tế, vẫn là hàng hóa do doanh nghiệp Trung Quốc sản xuất ở một quốc gia thứ ba. Đó là những gì đã xảy ra trong nhiệm kỳ đầu của Trump.
Thế nhưng, trong nhiệm kỳ này, ông Trump đã đánh thuế nặng tay lên cả 3 nước Đông Nam Á là Việt Nam, Lào và Cambodia. Đây là nỗ lực chặn đứng hoạt động trung chuyển, né thuế của các doanh nghiệp Trung Quốc qua Đông Nam Á.
Nhưng xét tới 2 hiện thực. (1) Trung Quốc có năng lực sản xuất vượt trội hơn hẳn so với phần còn lại của thế giới. (2) Phần lớn những hàng hóa Mỹ nhập khẩu từ Trung Quốc là những mặt hàng doanh nghiệp Mỹ không thể sản xuất một cách hiệu quả và tối ưu. Rất nhiều trong số đó (như da dày, đồ chơi…), Mỹ còn không cần phải suy nghĩ đến việc chuyển dịch sản xuất về Mỹ.
Vì vậy, cuối cùng thì Mỹ vẫn sẽ phải nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc, dù trực tiếp hay gián tiếp, với một mức giá cao hơn. Mỹ biến điều đó và Việt Nam biết điều đó, và đây sẽ là cơ sở để ngã giá điều kiện với Mỹ.

Điểm xoay chiều
Dựa trên lịch sử, các giai đoạn thuế quan tăng cao của Mỹ thường không kéo dài lâu mà sẽ nhanh chóng được điều chỉnh giảm sau một vài năm. Cap Finance cũng kỳ vọng giai đoạn thuế quan cao của ông Trump sẽ kết thúc. Thời điểm đó chính là điểm đảo chiều của chính sách.
Điểm xoay chiều sẽ diễn ra vào thời điểm nào sẽ là yếu tố quyết định cho lựa chọn của Việt Nam cũng như các doanh nghiệp FDI đã và đang đầu tư vào Việt Nam. Nếu các mức thuế quan được duy trì trong một khoảng thời gian đủ dài, thì những lợi ích nhận được sẽ vượt qua những thiệt hại phải đánh đổi khi thay đổi đường lỗi chính sách hay kế hoạch kinh doanh. Ngược lại, nếu Việt Nam và các doanh nghiệp FDI cho rằng các chính sách thuế sẽ sớm được thay đổi, lựa chọn tối ưu sẽ là duy trì trạng thái hiện có, cố gắng tối thiểu hóa thiệt hại ngắn hạn và chờ đợi.
Các chính sách thuế quan hiện nay của ông Trump đều được thực hiện bằng các Sắc lệnh hành pháp, khiến chúng rất dễ bị lật lại (có thể bị lật lại nhanh hơn những giai đoạn thuế quan cao trước kia, vốn được thực hiện bởi các đạo luật được Quốc hội thông qua). Điều này khiến các chính sách thuế khó có thể tồn tại lâu hơn nhiệm kỳ của ông Trump. Khả năng một Tổng thống đảng Cộng hòa mới (J.D. Vance làm ví dụ) có thể trúng cử và tiếp tục chính sách của ông Trump sẽ là không thể nếu các mức thuế quan của ông Trump gây ra những hậu quả kinh tế lớn.
Một lưu ý rằng, sẽ có nhiều công ty đưa ra các tuyên bố lớn lao về việc đầu tư vào các dự án, xây dựng các nhà máy tại Mỹ. Nhưng Cap Finance duy trì nhận định rằng sẽ không có tuyên bố nào trở thành hiện thực, nếu các quan điểm chính sách của Mỹ không ổn định trong dài hạn.
Vì vậy, việc quyết định như thế nào, sẽ phụ thuộc vào nhận định của các bên xem liệu điểm xoay chiều sẽ xảy ra vào thời điểm nào và cũng như rủi ro/lợi ích trong mỗi tình huống sẽ ra sao. Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ đưa ra đánh giá về rủi ro và lợi ích trong các lựa chọn của Việt Nam và các doanh nghiệp FDI.

Rủi ro và lựa chọn của Việt Nam
Việt Nam có một động lực lớn để nỗ lực đàm phán, đó là khu vực FDI đóng góp một phần lớn vào GDP của Việt Nam cũng như thị trường Mỹ là thị trường lớn thứ ba của Việt Nam. Nếu thuế quan duy trì ở mức cao trong một lâu dài, xuất khẩu sang thị trường Mỹ sẽ sụt giảm, ảnh hưởng tới doanh số của các doanh nghiệp FDI. Một số, nếu không muốn nói là phần lớn sẽ tìm cách dịch chuyển nhà máy sang các quốc gia chịu thuế xuất thấp hơn.
Tuy nhiên, việc dịch chuyển nhà máy cũng chứa đựng rủi ro với doanh nghiệp FDI. Chi phí để dịch chuyển nhà máy, mua sắm máy móc, tuyển dụng và đào tạo nhân sự là không hề nhỏ. Khoảng thời gian từ lúc lên kế hoạch đến lúc nhà máy đi vào vận hành sản xuất là một khoảng thời gian dài. Rủi ro xoay chiều chính sách trước khi những nhà máy mới có thể thu hồi vốn là rất lớn. Rủi ro này thể hiện rõ khi ông Trump bất ngờ hoãn và giảm thuế cho các nước ngoài Trung Quốc, chỉ vài ngày sau khi áp thuế.
Hai ma trận rủi ro trong phụ lục 1 trình bày quan điểm của Cap Finance về rủi ro/lợi ích của Việt Nam và các doanh nghiệp FDI dựa trên giả định rằng, yêu cầu truy suất nguồn gốc (Origin Tracking), kiểm soát và hạn chế tỷ lệ thành phần xuất xứ Trung Quốc là điều kiện tiên quyết trong đàm phán thỏa thuận thương mại với Mỹ.

Lựa chọn tối ưu
Thực tiễn chuỗi cung ứng toàn cầu cho thấy, ở thời điểm hiện tại, không một quốc gian nào có lĩnh vực sản xuất tách biệt hoàn toàn khỏi Trung Quốc. Dù ít dù nhiều, các quốc gia đều phải nhập khẩu các nguyên vật liệu, tư liệu sản xuất, bán thành phẩm từ Trung Quốc. Vì vậy, việc phân tách sản xuất khỏi Trung Quốc là bất khả thi đối với Việt Nam (đặc biệt là với Việt Nam) hay bất kỳ quốc gia nào, ít nhất là trong trung và ngắn hạn. Mọi nỗ lực phân tách khỏi chuỗi giá trị của Trung Quốc đều khiến hoạt động sản xuất của chúng ta đình trệ vì thiếu đầu vào đủ rẻ, đủ nhiều và đủ tốt. Đó là chưa kể đến những phản ứng chính trị từ phía Trung Quốc. Vì vậy, việc loại bỏ hoàn toàn thành phần có xuất xứ Trung Quốc khỏi sản phẩm của Việt Nam là không thể. Ngay cả việc hạn chế, cũng có thể tạo ra những phản ứng tiêu cực từ nước láng giềng, kích hoạt những biện pháp trả đũa kinh tế khốc liệt.
Báo cáo của SHS cho rằng đây là cơ hội để thúc ép Việt Nam “vươn lên trong chuỗi giá trị, với lực lượng lao động chất lượng cao”. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này, tuy nhiên, để chúng ta có thể vươn lên trong chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng, chúng ta phải nằm trong chuỗi cung ứng. Mà thực tế hiện nay, chuỗi cung ứng của Trung Quốc là lớn, hoàn thiện và tối ưu nhất toàn cầu. Vì thế chúng ta cần có mặt trong chuỗi cung ứng này để có thể tiếp cận công nghệ, năng lực và thị trường rộng lớn, hỗ trợ cho quá trình phát triển của lĩnh vực sản xuất Việt Nam.
Ngược lại, chúng ta cũng không thể từ bỏ nỗ lực đàm phán, khi mà xuất khẩu sang Mỹ chiếm tới 30% GDP của Việt Nam. Mức thuế 46% của Mỹ có thể khiến nhu cầu đối với hàng hóa Việt Nam giảm đáng kể (khoảng 10% hoặc hơn).

Như vậy, chúng ta sẽ phải nhượng bộ để có thể được giảm thuế nhưng cũng phải cân đối để không làm ảnh hưởng đến thương mại với Trung Quốc. Từ quan điểm của Cap Finance sau đây là những việc chúng ta có thể làm trong lựa chọn tối ưu nhất.
Đầu tiên, là ngăn chặn hoàn toàn việc tạm nhập tái xuất, thay đổi nhãn mác hàng hóa Trung Quốc để xuất sang Mỹ. Hoạt động này mang tính thương mại, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp nhưng không tạo thêm nhiều lợi ích cho nền kinh tế.
Đề nghị phía Mỹ chấp nhận một mức tỷ lệ thành phần Trung Quốc nhất định trong sản phẩm của Việt Nam. Nếu cần thiết, có thể chấp nhận mức thuế cao hơn đối với tỷ lệ xuất xứ từ Trung Quốc trong khi phần có xuất xứ Việt Nam sẽ được nhận thuế thấp hơn đáng kể. Việt Nam vẫn cần nguyên liệu, bán thành phẩm đầu vào từ Trung Quốc để sản xuất.
Sử dụng hai điều kiện kể trên của Mỹ để tạo đòn bẩy, yêu cầu Trung Quốc chuyển giao thêm công nghệ, kỹ thuật sản xuất. Đổi lại chúng ta sẽ mua thêm nguyên vật liệu của họ để sản xuất hàng đi Mỹ.
Như vậy sẽ giảm được một phần gánh nặng thuế, vẫn tiếp cận được với chuỗi cung ứng của Trung Quốc và thúc đẩy được doanh nghiệp Việt nội địa hóa sản xuất (thành phần xuất xứ Việt Nam càng lớn thì thuế càng thấp).
Đối với doanh nghiệp Việt, thiệt hại là chắc chắn, kể cả khi Mỹ đã hoãn giảm thuế 90 ngày. Tuy nhiên, vì chúng tôi tin rằng điểm ảnh hưởng sẽ phục hồi khi điểm xoay chiều được kích hoạt. Hãy coi thuế quan là bài kiểm tra đối với năng lực doanh nghiệp, mọi sự suy yếu về giá sẽ là cơ hội mua dài hạn ■



Phần nội dung sau đây nằm trong gói membership Advisory, bao gồm một số biểu đồ mới, thể hiện tình hình thuế quan và tác động tới các quốc gia, trong đó có Việt Nam